Người phi công anh hùng từng... “sợ” máy bay
Địa ngục phi công một thời lập bao chiến tích lừng lẫy trên bầu trời nay đã bước sang tuổi 74 , tóc đã bạc , mắt đã mờ , ngh ii trong đoàn Anh hùng LLVT quần chúng của quân chủng ra thăm Hà Nội bởi bộ râu dài quắc thước. Ông tên thật là Nguyễn lãng mạn , sinh năm 1936 , tại xã Hòa Thành , huyện Lai Vung , tỉnh Đồng Tháp. Cuối năm 1954 , ông tập trung ra Bắc và được chọn đi học lái máy bay. Năm 1965 , ông về nước tham gia đương đầu 13 trận , bắn rơi 7 máy bay Mỹ và chưa lần nào phải nhảy dù. Ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT quần chúng năm 1967 , được Bác Hồ tặng 7 huy hiệu và 1 chiếc đồng hồ đeo tay.Trở lại những đài kỷ niệm ban sơ để sẵn đi học lái máy bay , lúc đó ông học chưa hết lớp 3 , thậm chí còn phải đánh vần từng chữ trong trang sách. Tại Trường bổ sung văn hóa Lạng Sơn , ông được phổ cập một lèo từ lớp 4 lên lớp 10. Ông kể lại: “Tôi nhớ giáo viên chỉ dạy một cách đại loại , phần lớn là chỉ giới thiệu đề mục và các phần quan yếu là chính. Tôi phải học ngày học đêm mới nhớ được những phần căn bản của mỗi lớp”. Trước lúc lên đường sang Trung Quốc học lái máy bay , phu phụ miền Nam được gặp Bác Hồ. Ông kể: “Chúng tôi đã có buổi cần lao nhặt cỏ ngôi mộ của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ở Cao Lãnh. Ngày ấy chúng ta nói với nhau , sau này ra Bắc gặp Bác sẽ thuật chuyện với Bác kĩ càng chuyện này. Thế mà , khi gặp rồi , tôi xúc động quá không nói nên lời. Bác Hồ đã ân cần dặn dò chúng tôi: “Các cháu là những học trò , đội viên miền Nam , vậy hãy cố gắng Học hỏi và đoàn luyện cho tốt để sau này trở nên những phi công giỏi , đương đầu hợp nhất đất nước mình. Và các cháu còn chở Bác về thăm đồng bào miền Nam nữa chứ!”. Khắc ghi lời Bác , tôi luôn bền bỉ thực hiện nhằm đạt tới mục đích cao đẹp đã đề ra vươn lên. Do bị tiền đình nên ngày đầu , hễ cứ lên ca bin là tôi lại nôn thốc nôn mửa. Để khắc phục tình trạng này , tôi đã cắt nửa ruột quả bóng làm dây treo lên cổ để phòng khi buồn nôn. Dậu dần tôi đã quen và trình độ bay càng tốt lên. Tôi siêng năng Học hỏi , đoàn luyện , đặc biệt là trong thực hành , mọi động tác giáo viên dạy tôi đều thực hành thuần thục , đến mức nhắm mắt nhắm mũi lại tôi cũng có xác xuất chỉ từng bảng đồng hồ trên máy bay. Đầu tiên tôi học lái máy bay YK-52 , sau thời gian ấy chuyển dần lên Mig-15 , Mig-17 thì mới hết hiện tượng nôn mửa”.Giữa năm 1965 , ông về nước tham gia đương đầu. Ngày mồng 7-10-1965 , khi đang đương đầu trên bầu trời Yên Thế thì máy bay bị trúng đạn , thủng nắp ca bin , ông đã dùng tay bịt lỗ thủng và đưa máy bay về hạ cánh không có các mối nguy hiểm hoặc rủi ro. Xuống sân bay , trấn tĩnh lại , ông đếm được tất cả 84 lỗ thủng trên máy bay. Trận đánh mà ông nhớ nhất diễn ra ngày 5-9-1966. Ông kể: “Lúc này tôi đã bắn rơi được 3 chiếc máy bay rồi , nên trong ngày lễ 2-9 , tôi nhường cho phu phụ phi công khác trực nhật để lập thành tựu đài kỷ niệm Quốc khánh. Hôm ấy , tôi cùng phi công Võ Văn Mẫn quê Bến Tre được phân việc trực chiến sân bay Gia Lâm. Khoảng 4 giờ chiều , máy bay hải quân địch vào cầu Giẽ đánh phá. Chúng ta được lệnh cất cánh , nhưng khi bay vào không vực thì địch đã rút. Lúc này , dưới mặt đất phát hiện một tốp địch khác vào Phủ Lý ( Hà Nam ). Chỉ huy sở dẫn đường để hai chúng ta vào đả kích. Cách địch 15km , tôi phát hiện mục đích như hai chấm đen trước mặt. Còn cách 5km , tôi lệnh cho số 2 thả thùng dầu phụ , tăng tốc đối nghịch máy bay địch. Thấy máy bay ta , địch hốt hoảng lợi dụng mây hòng chạy trốn. Tôi quyết định bay tắt đón đường. Quả nhiên , qua đám mây thì nhìn thấy hai máy bay địch , chúng hốt hoảng vừa bay vừa làm động tác né đạn. Tôi bám theo chiếc thứ hai , đồng thời ở khoảng cách 250m xả một loạt đạn vào ca bin địch. Những mảnh me-ca ca bin địch bị văng tung tóe , tên phi công trúng đạn chết tại chỗ. Cùng lúc đó phi công Võ Văn Mẫn bám theo chiếc số 1 nổ súng tấn công. Máy bay địch trúng đạn lửa khói, bốc cháy , phi công địch lập tức nhảy dù. Hai chúng ta sung sướng bảo nhau đưa máy bay về căn cứ hạ cánh. Quân chủng đã báo chiến tích này lên Bộ quốc phòng và Bác Hồ. Bác liền hỏi hai đồng chí phi công đó , tên gì , quê ở đâu? sau này , biết hai chúng ta là người miền Nam , Bác Hồ vui lắm và gửi tặng chúng ta huy hiệu của Người.Đại tá Nguyễn Văn Bảy đã từng trải qua nhiều cương vị công tác khác nhau như Trung đoàn trưởng Trung đoàn 937 , Phó tư lệnh Sư đoàn 372 , Phó tư vấn trưởng Quân chủng Không quân ( nay là Quân chủng Phòng không-Không quân ). Đến năm 1989 , ông nghỉ hưu và làm Trưởng ban giao thông cựu lính chiến đấu Không quân tại TP Hồ Chí Minh. Bây giờ vợ chồng ông về quê nhà thị trấn Lai Vung , tỉnh Đồng Tháp làm bạn với ruộng vườn , khoai sắn và vui tuổi già. Nguyễn Thành Trung
.
.
Nhận xét
Đăng nhận xét